Theo ước tính, vào năm 2024, sẽ có khoảng 310.720 phụ nữ ở Hoa Kỳ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú xâm lấn - và khoảng 80% bệnh ung thư vú là ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen hoặc ER+, khiến đây trở thành phân nhóm ung thư vú phổ biến nhất .
Các khối u ER+ có nhiều thụ thể estrogen. Liệu pháp hormone thường được sử dụng để điều trị ung thư vú ER+. Trong các trường hợp ung thư vú ER+ ở giai đoạn tiến triển -- và thậm chí ở một số giai đoạn đầu của bệnh -- các khối u có thể kháng với liệu pháp hormone.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy những bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể hormone dương tính (HR+) và thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì người 2 âm tính (HER2-) không đáp ứng tốt với một số loại thuốc hóa trị và có tỷ lệ sống sót thấp hơn.
Cần có những phương pháp điều trị mới để tăng tỷ lệ sống sót không tiến triển (khoảng thời gian bệnh nhân ung thư vú sống mà bệnh không trở nên trầm trọng hơn).
PI3K là gì?
Việc tìm kiếm các phương pháp điều trị thay thế đã dẫn đến phát hiện rằng con đường phosphatidylinositol-3-kinase (PI3K) kiểm soát quá trình trao đổi chất, tăng trưởng, phân chia và tồn tại của tế bào và cho phép các tế bào hoạt động bình thường, thường không hoạt động bình thường ở những người mắc bệnh ung thư vú.
Đột biến hoặc thay đổi trong gen PIK3CA khiến quá trình phân chia và sao chép tế bào bị rối loạn và có liên quan đến một số loại ung thư, bao gồm ung thư ruột kết , ung thư nội mạc tử cung , ung thư phổi và ung thư vú.
Gen PIK3CA cũng đóng vai trò trong ung thư vú dương tính với hormone. Trên thực tế, nghiên cứu cho thấy đột biến của gen này được tìm thấy ở 40% ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen (ER).
Chất ức chế PI3K là gì?
Mục tiêu của chất ức chế PI3K là ức chế các gen đã bị rối loạn và khiến các tế bào ung thư chết và khối u co lại. Những loại thuốc này đã nổi lên như một lựa chọn đầy hứa hẹn để điều trị ung thư vú tiến triển . FDA đã phê duyệt chất ức chế PI3K đầu tiên để điều trị ung thư vú vào năm 2019.
Thuốc được thiết kế cho phụ nữ và nam giới sau mãn kinh mắc ung thư vú tiến triển có khối u là ung thư dương tính với thụ thể hormone và âm tính với HER2 với đột biến PIK3CA. Thuốc uống được dùng cùng với một loại thuốc thứ hai có tác dụng ngăn chặn tác động của estrogen lên tế bào ung thư.
Để xác định xem chất ức chế PI3K có phải là phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh ung thư vú hay không, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ sử dụng bộ dụng cụ được FDA chấp thuận để xét nghiệm mẫu máu tìm đột biến gen PIK3CA.
Thuốc ức chế PI3K có hiệu quả không?
Trong nhiều thử nghiệm lâm sàng , nghiên cứu cho thấy sự kết hợp giữa thuốc ức chế PI3K và thuốc chặn hormone là phương pháp điều trị hiệu quả cho những bệnh nhân ung thư vú tiến triển dương tính với HR, âm tính với HER2 có đột biến PIK3CA.
Một phát hiện quan trọng là loại thuốc này có liên quan đến tỷ lệ sống sót không tiến triển là 11 tháng, so với tỷ lệ dưới 6 tháng đối với bệnh nhân ung thư vú có đột biến PIK3CA không dùng thuốc ức chế PI3K.
Hiệu quả của chất ức chế PI3K đầu tiên dẫn đến sự phát triển của các loại thuốc bổ sung. Chất ức chế PI3K thường được sử dụng kết hợp với các liệu pháp khác, bao gồm liệu pháp nội tiết.
Ai có thể dùng thuốc ức chế PI3K?
Thuốc ức chế PI3K được thiết kế cho những người có đột biến gen PIK3CA. Một số loại ung thư, bao gồm ung thư đại tràng, não và dạ dày, có tỷ lệ đột biến gen này cao; một trong những loại thuốc trong nhóm này cũng là phương pháp điều trị hiệu quả cho những người bị ung thư vú.
Đột biến ở một gen là một phần của con đường PI3K thường được tìm thấy ở các khối u ung thư vú tiến triển HR+/HER2– hoặc HER2+; đột biến tương tự cũng được tìm thấy ở 9% khối u ung thư vú ba âm tính.
Khi các tế bào trên con đường PI3K hoạt động quá mức, nó có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc đối với các phương pháp điều trị ung thư vú thông thường, bao gồm liệu pháp nội tiết và hóa trị. Trong những trường hợp này, chất ức chế PI3K có thể được sử dụng làm phương pháp điều trị đầu tay.
Tác dụng phụ của thuốc ức chế PI3K là gì?
Các chất ức chế PI3K khác nhau nhắm vào các protein khác nhau trong tế bào nhằm thu nhỏ tế bào khối u và tiêu diệt tế bào ung thư.
Thuốc ức chế PI3K nhắm vào ít protein tế bào hơn có liên quan đến ít tác dụng phụ hơn. Với ít tác dụng phụ hơn, bệnh nhân có thể dùng thuốc ở liều cao hơn trong thời gian dài hơn, không bị gián đoạn.
Càng nhiều protein tế bào mà chất ức chế PI3K nhắm đến, nguy cơ tác dụng phụ càng cao. Trong một số trường hợp, các tác dụng phụ nghiêm trọng đã yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phải giảm liều, khuyến cáo tạm dừng dùng thuốc (ngưng dùng thuốc) hoặc ngừng kê đơn hoàn toàn.
Nhìn chung, thuốc ức chế PI3K có liên quan đến một số tác dụng phụ phổ biến, bao gồm buồn nôn và nôn , chán ăn, sụt cân, lở miệng, rụng tóc và các vấn đề về thận, gan hoặc tuyến tụy. Do khả năng phát ban kèm theo bong tróc và phồng rộp và các phản ứng da nghiêm trọng khác, thuốc ức chế PI3K có thể không được khuyến cáo cho những người có tiền sử phản ứng.
Đường huyết cao là một tác dụng phụ phổ biến khác liên quan đến thuốc ức chế PI3K. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy việc áp dụng chế độ ăn ketogenic hay “keto” nhiều chất béo và ít carbohydrate hoặc dùng thuốc tiểu đường thông thường để kiểm soát insulin có liên quan đến việc giảm kích thước khối u nhiều hơn so với chỉ dùng thuốc ức chế PI3K.
Khi nói đến điều trị ung thư vú, việc tìm hiểu thêm về vai trò của đột biến PI3K trong ung thư vú ER+ và cách thuốc ức chế PI3K có thể giúp ích là một phần quan trọng để trở thành bệnh nhân hiểu biết và kiểm soát được kế hoạch điều trị của mình.
NGUỒN:
BreastCancer.org: “Sự thật và số liệu thống kê về ung thư vú.”
NPJ Breast Cancer : “Những thay đổi PIK3CA và MAP3K1 ám chỉ trạng thái A trong lòng ống và có liên quan đến lợi ích lâm sàng từ chất ức chế pan-PI3K buparlisib và letrozole trong ung thư vú di căn ER+.”
Susan G. Komen.
Cleveland Clinic: "Thuốc chống estrogen kết hợp với chất ức chế PI3K: Bộ đôi năng động tiếp theo cho bệnh ung thư vú di căn ER+, HER2-."
Biên niên sử về ung thư : “Kết quả và bối cảnh phân tử của bệnh nhân ung thư vú di căn đột biến PIK3CA ”.
Nature Reviews Clinical Oncology : “Nhắm mục tiêu vào con đường PI3K trong ung thư: chúng ta có đang đạt được tiến triển không?”
Bộ gen ung thư của tôi: “Các dấu hiệu sinh học: PIK3CA. ”
Tạp chí Y học New England : “Alpelisib cho bệnh ung thư vú tiến triển dương tính với thụ thể hormone PIK3CA đột biến”.
Tạp chí Khoa học Phân tử Quốc tế : “Chất ức chế PI3K trong Ung thư: Ý nghĩa lâm sàng và Tác dụng phụ.”
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ: “FDA chấp thuận chất ức chế PI3K đầu tiên cho bệnh ung thư vú.”
Tạp chí Ung thư Lâm sàng : “Nghiên cứu giai đoạn Ib về gedatolisib kết hợp với palbociclib và liệu pháp nội tiết (ET) ở phụ nữ mắc ung thư vú di căn (MBC) dương tính với thụ thể estrogen (ER) (+).”
Tạp chí Ung thư Anh : “Đột biến của gen gây ung thư PIK3CA ở người”.
Frontiers in Molecular Biosciences : “Vai trò của việc ức chế PI3K trong điều trị ung thư vú, đơn lẻ hoặc kết hợp với thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch”.
Bản chất: “Việc ức chế phản hồi insulin làm tăng hiệu quả của thuốc ức chế PI3K.”
Tiếp theo trong điều trị