Hội chứng Cushing và ung thư phổi tế bào nhỏ
Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể tạo ra thêm hormone cortisol. Nếu điều này xảy ra, bạn có thể có dấu hiệu của hội chứng Cushing. Chẩn đoán và điều trị sớm là chìa khóa.
Đối với mỗi cột mốc trong nghiên cứu ung thư , có vô số nam và nữ cần cảm ơn. Nhờ sự sáng tạo và quyết tâm bền bỉ của họ, mọi người có hy vọng trong việc ngăn ngừa, chung sống, thậm chí chữa khỏi một số dạng ung thư .
Sau đây chỉ là một số cột mốc trong cuộc chiến chống ung thư và một số nhà nghiên cứu đã tạo nên chúng:
Nghiên cứu năm 1954
cho thấy mối liên hệ đầu tiên giữa hút thuốc lá và ung thư phổi .
1955
Nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng hormone testosterone ở nam và hormone estrogen ở nữ thúc đẩy sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt và ung thư vú . Nghiên cứu này nhận được Giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học năm 1966. Tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây ung thư tuyến tiền liệt và ung thư vú .
1958
Nhà khoa học phát triển 5- fluorouracil (5-FU), một loại thuốc hóa trị được sử dụng để điều trị nhiều loại ung thư. Đây là phương pháp điều trị đầu tay cho ung thư ruột kết .
1959
Nhà khoa học phát hiện ra các yếu tố tăng trưởng; chất có thể giúp khối u phát triển. Nghiên cứu giành giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học năm 1986.
Nghiên cứu phòng ngừa ung thư I bắt đầu. Nghiên cứu cuối cùng sẽ là nghiên cứu đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa hút thuốc lá và tử vong sớm do ung thư phổi .
1960
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ ủng hộ việc sử dụng rộng rãi xét nghiệm Pap . Xét nghiệm đơn giản này giúp giảm hơn 70% số ca tử vong do ung thư cổ tử cung và tử cung.
1961
Tiến sĩ Judah Folkman, Đại học Harvard phát hiện ra rằng khối u tạo ra một mạng lưới mạch máu để đưa oxy đến nuôi khối u để chúng có thể phát triển. Ông gọi quá trình này là quá trình hình thành mạch máu.
Năm 1966
, Tiến sĩ Y khoa Henry Lynch mô tả hội chứng ung thư di truyền đầu tiên trong gia đình .
Năm 1970,
Tổng giám đốc Y tế tuyên bố rằng hút thuốc lá chắc chắn có liên quan đến ung thư.
Gen gây ung thư đầu tiên, hay oncogen, được phát hiện.
Cũng trong những năm 70:
Một số ít bác sĩ phẫu thuật có tư duy tiến bộ cho rằng phẫu thuật cắt bỏ vú đơn giản -- chỉ cắt bỏ phần vú -- cũng hiệu quả như phẫu thuật cắt bỏ vú toàn bộ .
Các bác sĩ phẫu thuật bắt đầu nghiên cứu phương pháp cắt bỏ khối u vú sau đó là xạ trị như một phương pháp thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú.
Trong số những nhà nghiên cứu ung thư vú có tầm nhìn xa trông rộng : Bernard Fisher, MD, giám đốc Dự án phẫu thuật bổ trợ vú và ruột quốc gia, và Umberto Veronesi, MD, nhà nghiên cứu tại Viện Ung thư châu Âu tại Milan, Ý. Cả hai đều đã triển khai các nghiên cứu dài hạn về các kỹ thuật này.
1971
Tổng thống Richard Nixon tuyên bố cuộc chiến chống ung thư toàn quốc. Đạo luật Ung thư Quốc gia được Tổng thống Nixon ký, thiết lập một chương trình toàn quốc nhằm tìm kiếm phương pháp chữa trị ung thư.
1972
Nhà khoa học tiên phong trong kỹ thuật cấy ghép tủy xương để điều trị ung thư. Các nhà nghiên cứu nhận giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y khoa năm 1990.
1973
Paul Berg, Tiến sĩ, nhân bản gen đầu tiên. Ông nhận giải Nobel Hóa học năm 1980.
1974
Nhà khoa học V. Craig Jordan, Tiến sĩ, cho thấy thuốc tamoxifen ngăn ngừa ung thư vú ở chuột bằng cách liên kết với thụ thể estrogen . Tìm hiểu thêm về tamoxifen .
1975
Các nhà nghiên cứu phát triển công nghệ dẫn đến sự phát triển của một kháng thể đơn dòng có thể tăng cường hệ thống miễn dịch. Nghiên cứu này dẫn đến sự phát triển của một số loại thuốc điều trị ung thư đầy hứa hẹn vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Các nhà nghiên cứu nhận được Giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học vào năm 1984.
Tìm hiểu thêm về kháng thể đơn dòng và các phương pháp điều trị ung thư tiên tiến khác .
1978
Các nhà nghiên cứu phát triển các quy trình để giải trình tự DNA, cho phép các nhà khoa học nghiên cứu hoạt động của các gen cụ thể. Nghiên cứu này nhận được Giải Nobel Hóa học năm 1980.
Tamoxifen được FDA chấp thuận để điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen .
Các nhà nghiên cứu phát triển và tiến hành thử nghiệm đầu tiên về tamoxifen để ngăn ngừa tái phát ở những người sống sót sau ung thư vú.
1979
Nhà nghiên cứu tìm thấy gen gây ung thư đầu tiên - một oncogen - trong ung thư bàng quang ở người . Ngày nay, người ta đã biết đến hơn 50 oncogen.
Nhà khoa học phát hiện ra protein p53, sau đó được phát hiện là gen đột biến thường xuyên nhất ở bệnh ung thư ở người.
1980
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra loại virus đầu tiên gây ung thư, HTLV-1, gây ra bệnh bạch cầu tế bào T ở người.
Đã có hướng dẫn phát hiện sớm ung thư vú.
1981
Các nhà khoa học phát triển xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt ( PSA ) để sàng lọc và phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt .
Năm 1982,
một nhà nghiên cứu đã phát triển "chuột chuyển gen" đầu tiên, một con chuột có gen sản xuất hormone tăng trưởng ở chuột, mở ra những cách mới để nghiên cứu về nguyên nhân và cách điều trị ung thư.
1983
Nhà khoa học phát hiện ra vai trò của tế bào dendrit, sau này trở thành cơ sở cho vắc-xin điều trị ung thư.
1984
Nhóm của Judah Folkman tìm ra yếu tố hình thành mạch máu đầu tiên, mở đường cho việc phát triển loại thuốc mới.
Năm 1985,
nhà nghiên cứu chứng minh rằng phẫu thuật cắt bỏ khối u vú kết hợp với xạ trị tương đương với phẫu thuật cắt bỏ vú để duy trì sự sống cho bệnh nhân ung thư vú.
Năm 1986,
một nhà nghiên cứu đã nhân bản gen đầu tiên trong số 20 gen hiện được biết đến có thể ngăn chặn khối u, gen võng mạc nguyên bào của bệnh ung thư mắt ở trẻ em .
1988
Một hợp chất gọi là taxol , có nguồn gốc từ vỏ cây thủy tùng Thái Bình Dương, được ca ngợi là loại thuốc điều trị ung thư mới đầy hứa hẹn nhất trong nhiều thập kỷ. Nó nhanh chóng trở thành liệu pháp tiêu chuẩn cho ung thư buồng trứng và cũng được sử dụng để điều trị ung thư phổi và ung thư vú.
Tiến sĩ Dennis Slamon phát hiện rằng thụ thể HER2/neu được biểu hiện quá mức ở 15% đến 30% bệnh ung thư vú và là một đặc điểm tiên lượng bất lợi.
1989-1991
Cuộc đua đang diễn ra để khám phá thêm các yếu tố hình thành mạch máu để ngăn chặn sự phát triển của khối u. Một nhóm các nhà khoa học đã khám phá ra VEGF vào năm 1989. Folkman khám phá ra angiostatin và endostatin vào năm 1991.
1990-1992
Thử nghiệm phòng ngừa ung thư II cho thấy nguy cơ ung thư ruột kết thấp hơn ở những người ăn chế độ ăn nhiều trái cây và rau quả . Dữ liệu từ Thử nghiệm phòng ngừa ung thư II cũng cho thấy nguy cơ thấp hơn ở những người dùng aspirin thường xuyên.
Các tác nhân gây ung thư trong môi trường - chẳng hạn như bức xạ từ mặt trời và hóa chất từ khói thuốc lá - có liên quan chặt chẽ hơn đến tổn thương gen cụ thể có thể gây ung thư.
1993
Lần đầu tiên sử dụng phương pháp cấy ghép tế bào gốc để điều trị bệnh bạch cầu và u lympho .
Tỷ lệ hút thuốc giảm từ 45% dân số năm 1946 xuống còn 25% dân số.
1994
Gen ung thư vú đầu tiên (BRCA1) được phát hiện. BRCA1 là gen ức chế khối u liên quan đến ung thư vú và ung thư buồng trứng . Tìm hiểu thêm về di truyền học của ung thư vú .
Tập thể dục có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh.
1995
Gen ung thư vú thứ hai (BRCA2) được phát hiện.
Tiến sĩ Walter Willett, Tiến sĩ Y khoa, Bác sĩ Y tế Công cộng, cho thấy chế độ ăn Địa Trung Hải giàu nước sốt cà chua và dầu ô liu có thể giúp ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt .
Hướng dẫn năm 1996
của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ về chế độ ăn uống, dinh dưỡng và ung thư khẳng định rằng một phần ba số ca tử vong do ung thư có thể được ngăn ngừa thông qua chế độ ăn uống lành mạnh và hoạt động thể chất .
Nghiên cứu phòng ngừa ung thư II cho thấy tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở những người vợ/chồng không hút thuốc của người hút thuốc tăng lên. Nghiên cứu này cũng cho thấy khói thuốc lá thụ động gây ra tỷ lệ tử vong do bệnh tim tăng lên.
Irinotecan được chấp thuận để điều trị ung thư ruột kết giai đoạn tiến triển.
Các nhà khoa học báo cáo rằng selen làm giảm nguy cơ ung thư phổi , ruột kết và tuyến tiền liệt .
1997
Lần đầu tiên ghi nhận sự sụt giảm chung về số ca tử vong do ung thư. Số ca tử vong do ung thư giảm 0,5% mỗi năm trong giai đoạn 1990-1995.
Các nhà nghiên cứu đã nhân bản gen telomerase, một loại enzyme được cho là đặc hiệu đối với tế bào ung thư.
Tiến sĩ Judah Folkman và Tiến sĩ Timothy Browder chữa ung thư ở chuột bằng cách chặn nguồn cung cấp máu cho khối u bằng angiostatin và endostatin (chống hình thành mạch). Thử nghiệm thuốc chống hình thành mạch Avastin bắt đầu ở người.
FDA chấp thuận liệu pháp kháng thể đơn dòng ( Rituxan ) cho bệnh u lympho tế bào B. Đến năm 1998, tỷ lệ sống sót chung sau năm năm đối với căn bệnh này đã được cải thiện lên 58%.
1998
Số ca ung thư mới giảm. Tỷ lệ mắc ung thư nói chung giảm 0,7% mỗi năm trong giai đoạn 1990-1995.
Các nhà khoa học báo cáo rằng tamoxifen có thể làm giảm 45% tỷ lệ mắc ung thư vú ở phụ nữ có nguy cơ cao, đây là nghiên cứu thành công đầu tiên về phương pháp điều trị ngăn ngừa ung thư vú.
Dennis Slamon, MD, PhD, cho thấy một kháng thể đơn dòng được biến đổi gen có tên Herceptin cải thiện khả năng sống sót của phụ nữ mắc bệnh ung thư vú tiến triển . FDA chấp thuận loại thuốc mới để điều trị ung thư vú tiến triển .
Năm 1999
, Tiến sĩ V. Craig Jordan báo cáo rằng Evista làm giảm 76% nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương do xương mỏng.
Các nhà khoa học biến một tế bào bình thường của con người thành tế bào ung thư bằng ba yếu tố được xác định: một gen gây ung thư, bất hoạt hai gen ức chế và gen tạo nên telomerase.
Tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư tiếp tục giảm.
Năm 2000
, Tiến sĩ Brian Druker bắt đầu thử nghiệm giai đoạn II của STI-571 ( Gleevec ), một loại thuốc ức chế một loại enzyme chỉ có trong tế bào bệnh bạch cầu tủy mãn tính (9CML), sau khi thuốc này gây thuyên giảm ở tất cả 31 bệnh nhân CML trong nghiên cứu giai đoạn I của ông.
Trình tự bản đồ gen người đã được công bố.
Một nhóm các nhà khoa học công bố rằng sự kết hợp giữa hóa trị liệu với liệu pháp gen p53 đã khiến khối u co lại ở 25% đến 30% bệnh nhân ung thư đầu và cổ.
Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng một kháng thể đơn dòng thử nghiệm, IMC-C225 (sẽ trở thành Erbitux ), có hiệu quả trong điều trị ung thư ruột kết, đầu và cổ kháng thuốc.
Sau ba năm nghiên cứu, asen ( Trisenox ) được chấp thuận là thuốc mồ côi để điều trị bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu nguyên bào tủy cấp tính (APL). Thuốc mồ côi điều trị các tình trạng bệnh lý hiếm gặp; các nhà sản xuất nhận được các ưu đãi tài chính để phát triển các loại thuốc như vậy.
Thuốc ức chế Cox-2 Celebrex được FDA chấp thuận để phòng ngừa polyp ung thư ruột kết ở những cá nhân mang một gen cụ thể gây ra bệnh polyp tuyến gia đình, một dạng ung thư ruột kết. Vào tháng 4 năm 2005, FDA đã yêu cầu Celebrex đưa ra cảnh báo mới về nguy cơ tiềm ẩn gây đau tim và đột quỵ cũng như nguy cơ chảy máu loét dạ dày . Các thử nghiệm lâm sàng để phòng ngừa ung thư ruột kết lẻ tẻ và các loại ung thư khác đang được tiến hành.
Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên người về endostatin (một loại thuốc chống hình thành mạch máu mới) cho thấy nó an toàn và có khả năng chống ung thư.
Năm 2001,
FDA chấp thuận Gleevec (trước đây là STI 571) để điều trị bệnh bạch cầu tủy mãn tính.
Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng IMC-C225 cộng với thuốc Camptosar đã tạo ra phản ứng ở các bệnh ung thư đại tràng kháng với phương pháp điều trị tiêu chuẩn trong các thử nghiệm giai đoạn II. IMC-C225, sau này đổi tên thành Erbitux, là một kháng thể đơn dòng làm chậm sự phát triển của ung thư bằng cách nhắm vào một loại protein được tìm thấy trên bề mặt của một số tế bào được gọi là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR). EGFR đóng vai trò trong việc điều chỉnh sự phát triển của tế bào.
FDA chấp thuận một loại thuốc điều trị hormone mới, Femara , để điều trị ung thư vú giai đoạn tiến triển.
Tiến sĩ Judah Folkman dự đoán bệnh ung thư sẽ có thể "điều trị được" trong thập kỷ tới.
Năm 2002,
các nhà nghiên cứu công bố một số thành công với vắc-xin phòng ngừa ung thư cổ tử cung .
Công nghệ mảng DNA (chip gen) có thể dự đoán chính xác bệnh nhân ung thư vú không có hạch nào sẽ phát triển di căn và do đó được hưởng lợi từ liệu pháp bổ trợ tích cực.
Các nhà nghiên cứu công bố xét nghiệm sàng lọc ung thư ruột kết mới có khả năng phát hiện những bất thường về gen cụ thể trong mẫu phân của tới 70% bệnh nhân ung thư ruột kết.
Các nghiên cứu năm 2003
cho thấy tính ưu việt tiềm tàng của hai liệu pháp hormone mới điều trị ung thư vú là Arimidex và Femara .
Nghiên cứu cho thấy Avastin giúp cải thiện khả năng sống sót cho những người mắc bệnh ung thư ruột kết giai đoạn cuối.
Tìm hiểu về hai tiến bộ lớn trong điều trị ung thư .
Năm 2004,
các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng xét nghiệm máu đơn giản có thể giúp dự đoán ung thư ruột kết.
FDA chấp thuận Erbitux để điều trị ung thư ruột kết.
Avastin trở thành loại thuốc chống hình thành mạch đầu tiên được FDA chấp thuận để điều trị ung thư đại tràng. Các loại thuốc chống hình thành mạch khác đang được xem xét để phê duyệt.
Năm 2006,
FDA chấp thuận Gardasil , một loại vắc-xin bảo vệ chống lại loại vi-rút gây ra hầu hết các bệnh ung thư cổ tử cung.
NGUỒN: Viện Ung thư Quốc gia. Quỹ Nghiên cứu Ung thư Quốc gia. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ. Đại học Johns Hopkins. Tính năng WebMD: "Liệu pháp điều trị ung thư vú tiên tiến".
Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể tạo ra thêm hormone cortisol. Nếu điều này xảy ra, bạn có thể có dấu hiệu của hội chứng Cushing. Chẩn đoán và điều trị sớm là chìa khóa.
Phẫu thuật lạnh tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách đông lạnh chúng. Đây là một lựa chọn cho những người bị ung thư phổi không thể cắt bỏ. Tìm hiểu về rủi ro và lợi ích của nó.
Những người mắc loại ung thư vú giai đoạn đầu phổ biến hiện nay có thể dùng một loại thuốc khác có tên là Kisqali, đã được chứng minh là có tác dụng làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư tái phát.
Những người sống sót sau ung thư vú: Đối phó với nỗi sợ tái phát
Đầu giờ tối ở Norfolk, Va., nơi Janice_78 sống. Trên không gian mạng, Xe buýt màu hồng đã sẵn sàng lăn bánh -- sẵn sàng cho những người sống sót sau căn bệnh ung thư vú như cô ấy nhảy lên xe.
Ung thư học thể dục sử dụng thể lực để cải thiện cuộc sống của những người mắc bệnh ung thư và những người sống sót sau ung thư. Tìm hiểu thêm về cách thức hoạt động, các loại bài tập mà nó sử dụng và lợi ích của nó.
Hóa trị khí dung trong phúc mạc áp suất cao, hay PIPAC, là một kỹ thuật điều trị mới cung cấp hóa trị dưới dạng khí dung áp suất cao hoặc bình xịt. Tìm hiểu về cách sử dụng, những gì xảy ra khi bạn sử dụng và những gì mong đợi sau đó.
Chuyển hóa ung thư là mục tiêu tiềm năng cho các phương pháp điều trị làm chậm hoặc ngăn chặn ung thư. Tìm hiểu những gì các nhà nghiên cứu thấy là những cách có thể thực hiện được.
Nếu gần đây bạn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư, bạn có thể tự hỏi khi nào và làm thế nào để thông báo tin tức này cho bạn bè và gia đình. Không có cách nào đúng; bạn sẽ cần phải làm những gì bạn cảm thấy đúng. Sau đây là một số gợi ý.
Bạn không thể ngăn ngừa rụng tóc do hóa trị, nhưng WebMD đưa ra lời khuyên về nhiều điều bạn có thể làm để vượt qua tình trạng này.