Một nốt phổi đơn độc (SPN) là một bất thường duy nhất ở phổi có đường kính nhỏ hơn 3 cm. Nhìn chung, một nốt phổi phải phát triển đến đường kính ít nhất 1 cm trước khi có thể nhìn thấy trên X-quang ngực.
SPN được bao quanh bởi mô phổi bình thường và không liên quan đến bất kỳ bất thường nào khác ở phổi hoặc các hạch bạch huyết gần đó (cấu trúc nhỏ hình hạt đậu có ở khắp cơ thể).
Những người mắc SPN thường không có triệu chứng. SPN thường được phát hiện tình cờ trên phim chụp X-quang ngực vì lý do khác (được gọi là phát hiện tình cờ). SPN là bất thường thường thấy trên phim chụp X-quang ngực và thường cần được đánh giá thêm. Khoảng 150.000 trường hợp được phát hiện mỗi năm dưới dạng phát hiện tình cờ, trên phim chụp X-quang hoặc chụp CT.
Hầu hết SPN đều lành tính (không phải ung thư); tuy nhiên, chúng có thể biểu hiện giai đoạn đầu của ung thư phổi nguyên phát hoặc có thể chỉ ra rằng ung thư đang di căn (lan rộng) từ một phần khác của cơ thể đến phổi bị ảnh hưởng.
Việc xác định SPN nhìn thấy trên phim chụp X-quang ngực hoặc chụp CT ngực là lành tính hay ác tính (ung thư) là rất quan trọng. Chẩn đoán và điều trị kịp thời ung thư phổi giai đoạn đầu trông giống như SPN có thể là cơ hội duy nhất để chữa khỏi bệnh ung thư .
Nguyên nhân gây ra các nốt phổi đơn độc
Các nốt phổi đơn độc có thể có những nguyên nhân sau:
- Khối u (sự phát triển bất thường có thể lành tính hoặc ác tính):
- Ung thư phổi
- Di căn (sự lan truyền của ung thư từ các bộ phận khác của cơ thể đến phổi)
- U lympho (một khối u được tạo thành từ mô lymphoid)
- U carcinoid (một khối u nhỏ, phát triển chậm và có thể lan rộng)
- Hamartoma (một khối u bất thường của các mô bình thường được tổ chức kém)
- U xơ (một khối u được tạo thành từ mô liên kết xơ)
- U xơ thần kinh (một khối u không phải ung thư được tạo thành từ các sợi thần kinh)
- U nguyên bào (một khối u chủ yếu bao gồm các tế bào chưa trưởng thành, chưa phân hóa)
- Sarcoma (một khối u được tạo thành từ mô liên kết -- thường là ung thư)
- Nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra -- Bệnh lao hoặc bệnh nocardiosis
- Nhiễm trùng do nấm gây ra -- Histoplasma, Coccidioidomycosis, Blastomycosis , hoặc Cryptococcosis
- Các nguyên nhân truyền nhiễm khác:
- Áp xe phổi (một bệnh nhiễm trùng trong đó các tế bào của một phần phổi bị chết)
- Viêm phổi tròn (nhiễm trùng do vi-rút hoặc vi khuẩn gây ra; các khoang khí của phổi chứa đầy dịch và tế bào)
- Nang sán (một nang được hình thành bởi giai đoạn ấu trùng của sán dây , Echinococcus )
- Viêm (không nhiễm trùng):
- Viêm khớp dạng thấp (một bệnh tổng quát của các mô liên kết; đau khớp là triệu chứng chính)
- Bệnh u hạt với viêm đa mạch ( viêm các mạch máu nhỏ đặc trưng bởi các tổn thương giết chết các tế bào ở các cơ quan khác nhau của cơ thể)
- Bệnh sarcoidosis (một căn bệnh đặc trưng bởi các tổn thương dạng hạt không rõ nguyên nhân, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác nhau của cơ thể)
- Viêm phổi dạng mỡ (giống chất béo)
- Bẩm sinh:
-
- Dị dạng động mạch tĩnh mạch ( động mạch và tĩnh mạch không phát triển bình thường hoặc không bình thường )
- Tách biệt (một phần mô phổi bị tách khỏi mô khỏe mạnh xung quanh)
- U nang phổi (một túi bất thường chứa khí, chất lỏng hoặc vật liệu bán rắn)
- Khác:
- Nhồi máu phổi (tế bào hoặc một phần phổi chết do thiếu máu cung cấp đột ngột)
- Xẹp phổi tròn (giảm hoặc mất không khí ở một phần phổi)
- Tắc nghẽn chất nhầy (một phần của phổi chứa đầy chất nhầy)
- Xơ hóa tiến triển nặng, còn gọi là " bệnh phổi đen " (hình thành mô xơ như một quá trình phản ứng, trái ngược với hình thành mô xơ như một thành phần bình thường của cơ quan hoặc mô)
Thỉnh thoảng, bóng mờ trên phim chụp X-quang có thể bị nhầm là SPN. Bóng mờ ở núm vú cũng không phải là hiếm.
Triệu chứng của các nốt phổi đơn độc
Hầu hết những người mắc SPN không có triệu chứng. Nhìn chung, SPN được phát hiện như một phát hiện tình cờ.
Ung thư phổi giai đoạn đầu thường có thể xuất hiện dưới dạng SPN trên phim chụp X-quang ngực. Do đó, mục tiêu của việc điều tra SPN là phân biệt khối u lành tính với khối u ác tính càng sớm và chính xác càng tốt.
SPN nên được coi là có khả năng gây ung thư cho đến khi được chứng minh là không có khả năng đó.
Mọi người nên luôn trao đổi cởi mở và trung thực với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tiền sử và các yếu tố rủi ro của mình. Quá trình kiểm tra của bạn phụ thuộc vào nguy cơ cá nhân của bạn rằng SPN là ung thư. Điều này phụ thuộc phần lớn vào độ tuổi, phơi nhiễm và tiền sử gia đình.
Các đặc điểm sau đây rất quan trọng khi đánh giá xem SPN là lành tính hay ác tính.
- Tuổi tác: Nguy cơ mắc bệnh ác tính tăng theo tuổi tác.
- Nguy cơ 3% ở độ tuổi 35-39
- Nguy cơ 15% ở độ tuổi 40-49
- Nguy cơ 43% ở độ tuổi 50-59
- Nguy cơ cao hơn 50% ở những người từ 60 tuổi trở lên
- Tiền sử hút thuốc: Tiền sử hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc SPN ác tính.
- Tiền sử ung thư : Những người có tiền sử ung thư ở những vùng khác trên cơ thể có nguy cơ mắc bệnh SPN ác tính cao hơn.
- Các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp gây ung thư phổi: Tiếp xúc với amiăng , radon, niken, crom , vinyl clorua và hydrocarbon đa vòng làm tăng nguy cơ mắc SPN ác tính.
- Tiền sử du lịch: Những người đã đi đến những khu vực có bệnh nấm lưu hành (như bệnh histoplasma, bệnh coccidioidomycosis hoặc bệnh blastomycosis) hoặc nơi có tỷ lệ mắc bệnh lao cao thì khả năng mắc bệnh SPN là lành tính cao hơn.
- Những người có tiền sử mắc bệnh lao hoặc bệnh nấm phổi có nhiều khả năng mắc bệnh SPN lành tính hơn.
Kỳ thi và bài kiểm tra SPN
Xét nghiệm máu không thể đưa đến chẩn đoán. Tuy nhiên, các xét nghiệm sau đây có thể giúp chẩn đoán SPN là lành tính hay ác tính:
- Thiếu máu (nồng độ hemoglobin thấp ) hoặc tốc độ lắng hồng cầu tăng cao (tốc độ các tế bào hồng cầu lắng đọng trong máu chống đông) có thể chỉ ra bệnh ung thư tiềm ẩn hoặc bệnh truyền nhiễm.
- Nồng độ men gan , phosphatase kiềm hoặc canxi huyết thanh tăng cao có thể chỉ ra rằng SPN là ung thư và đang lan rộng hoặc ung thư đang lan từ các bộ phận khác của cơ thể như gan hoặc xương đến phổi.
- Những người mắc bệnh histoplasma hoặc bệnh coccidioidomycosis có thể có nồng độ kháng thể immunoglobulin G và immunoglobulin M cao đặc hiệu với các loại nấm này.
- Những người đã tiếp xúc với bệnh lao có thể có kết quả xét nghiệm da tuberculin dương tính hoặc xét nghiệm quantiferon-gold dương tính (một xét nghiệm máu mới hơn để phát hiện bệnh lao tiềm ẩn, có thể biểu hiện dưới dạng u hạt).
Chụp X-quang ngực
- Vì SPN thường được phát hiện đầu tiên trên phim chụp X-quang ngực, nên việc xác định xem nốt sần nằm trong phổi hay ngoài phổi là rất quan trọng. Chụp X-quang ngực từ tư thế nghiêng, chụp huỳnh quang hoặc chụp CT có thể giúp xác nhận vị trí của nốt sần.
- Mặc dù đôi khi phát hiện các nốt có đường kính 5 mm trên phim chụp X-quang ngực, nhưng SPN thường có đường kính 8-10 mm.
- Bệnh nhân có phim chụp X-quang ngực cũ hơn nên cho bác sĩ chăm sóc sức khỏe của họ xem để so sánh. Điều này rất quan trọng vì có thể xác định được tốc độ phát triển của một nốt. Thời gian tăng gấp đôi của hầu hết các SPN ác tính là từ một đến sáu tháng và bất kỳ nốt nào phát triển chậm hơn hoặc nhanh hơn có khả năng là lành tính.
- Chụp X-quang ngực có thể cung cấp thông tin về kích thước, hình dạng, khoang, tốc độ tăng trưởng và mô hình vôi hóa. Tất cả các đặc điểm này có thể giúp xác định tổn thương là lành tính hay ác tính. Tuy nhiên, không có đặc điểm nào trong số này là hoàn toàn cụ thể đối với ung thư phổi.
- Các đặc điểm có thể giúp thiết lập chẩn đoán với độ chắc chắn hợp lý bao gồm (1) mô hình vôi hóa lành tính, (2) tốc độ tăng trưởng quá chậm hoặc quá nhanh để là ung thư phổi, (3) hình dạng hoặc vẻ ngoài cụ thể của nốt sần phù hợp với tổn thương lành tính và (4) bằng chứng rõ ràng về một quá trình bệnh lành tính khác.
Chụp CT
- Chụp CT là một phương tiện hỗ trợ vô giá trong việc xác định các đặc điểm của nốt và xác định khả năng ung thư. Ngoài các đặc điểm được thấy trên phim chụp X-quang ngực, chụp CT ngực cho phép đánh giá nốt tốt hơn. Những ưu điểm của chụp CT so với chụp X-quang ngực bao gồm:
- Độ phân giải tốt hơn: Có thể phát hiện các nốt nhỏ tới 3-4 mm. Các đặc điểm của SPN được hình dung tốt hơn trên CT scan, do đó hỗ trợ chẩn đoán.
- Xác định vị trí tốt hơn: Vị trí của nốt sần có thể được xác định chính xác hơn.
- Những khu vực khó đánh giá trên phim X-quang sẽ được nhìn thấy rõ hơn trên phim CT.
- Chụp CT cung cấp thông tin chi tiết hơn về cấu trúc bên trong và dễ dàng phát hiện tình trạng vôi hóa.
- Chụp CT có thể cho biết rõ liệu có hạch bạch huyết to hay không.
- Nếu chụp CT cho thấy có mỡ bên trong nốt, tổn thương là lành tính. Điều này đặc trưng cho tổn thương lành tính.
- Chụp CT giúp phân biệt giữa bất thường về khối u và nhiễm trùng.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET)
- Tế bào ác tính cần nhiều năng lượng hơn tế bào bình thường và các bất thường lành tính vì chúng nhân lên nhanh hơn; do đó, chúng tiêu thụ nhiều đường hơn. PET liên quan đến một chất được đánh dấu phóng xạ để đo hoạt động này. Các nốt ác tính hấp thụ nhiều chất hơn các nốt lành tính và mô bình thường và có thể dễ dàng được xác định trên hình ảnh màu 3 chiều.
- Quét PET là một xét nghiệm chính xác, không xâm lấn. Chúng là xét nghiệm thường quy nếu nốt đủ lớn (>8mm) để có ích. Nếu nốt quá nhỏ, chúng không hấp thụ đủ glucose được đánh dấu bằng phóng xạ.
Sinh thiết (lấy mẫu tế bào để kiểm tra dưới kính hiển vi): Có nhiều cách khác nhau được sử dụng để thu thập mẫu sinh thiết từ đường thở hoặc mô phổi nơi có SPN.
Nội soi phế quản: Thủ thuật này được sử dụng cho các SPN nằm gần thành đường thở hơn. Ống soi phế quản (một ống mỏng, mềm dẻo, có đèn với một camera nhỏ ở đầu) được đưa qua miệng hoặc mũi và xuống khí quản. Từ đó, ống soi có thể được đưa vào đường thở (phế quản) của phổi. Trong quá trình nội soi phế quản, chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ lấy mẫu sinh thiết từ SPN. Nếu tổn thương không dễ tiếp cận trên thành đường thở hoặc có đường kính nhỏ hơn 2 cm, có thể thực hiện sinh thiết bằng kim. Thủ thuật này được gọi là sinh thiết bằng kim chọc hút xuyên phế quản (TBNA).
Sinh thiết chọc hút kim xuyên thành ngực (TTNA): Loại sinh thiết này được sử dụng nếu tổn thương không dễ tiếp cận trên thành đường thở hoặc có đường kính nhỏ hơn 2 cm. Nếu SPN nằm ở ngoại vi phổi, phải lấy mẫu sinh thiết bằng kim chọc qua thành ngực và vào SPN. Thường được thực hiện dưới sự hướng dẫn của CT. Với SPN có đường kính lớn hơn 2 cm, độ chính xác chẩn đoán cao hơn (90%-95%). Tuy nhiên, độ chính xác giảm (60%-80%) ở các nốt có đường kính nhỏ hơn 2 cm.
Nội soi ngực có hỗ trợ video (VATS) được thực hiện với sự trợ giúp của ống soi ngực (ống mềm, có đèn với một camera nhỏ ở đầu) được đưa vào ngực thông qua một vết cắt nhỏ trên thành ngực. Camera hiển thị hình ảnh trên màn hình TV và bác sĩ phẫu thuật sử dụng màn hình để hướng dẫn phẫu thuật. Đây là một lựa chọn có thể được sử dụng để loại bỏ nốt sần để điều trị và để xác nhận chẩn đoán.
Theo dõi và quản lý nốt phổi đơn độc
Dựa trên kết quả xét nghiệm và kiểm tra, người mắc SPN có thể được chia thành một trong ba nhóm sau:
- Những người có khả năng mắc SPN lành tính: Những người được chẩn đoán mắc SPN lành tính có thể cần phải trải qua quá trình theo dõi liên tục bằng chụp CT để đảm bảo rằng nốt sần biến mất hoặc không phát triển. Khoảng thời gian theo dõi phụ thuộc vào nguy cơ ung thư của bạn, nhưng có thể là một hoặc hai lần một năm trong tối đa năm năm. Việc xác định SPN có lành tính hay không thường dựa trên các yếu tố bao gồm:
- Người dưới 35 tuổi không có yếu tố nguy cơ khác
- Hình ảnh lành tính trên phim chụp X-quang ngực
- Sự ổn định của SPN trong khoảng thời gian hai năm trên phim chụp X-quang ngực.
- Các yếu tố khác bao gồm giới tính, dân tộc, hình dạng của nốt sần, vị trí của nốt sần, tiền sử hút thuốc, tiền sử bệnh tật và tiền sử tiếp xúc với radon, amiăng hoặc urani.
- Người có SPN ác tính: Những người được chẩn đoán mắc SPN ác tính dựa trên kết quả khám và xét nghiệm thường được phẫu thuật cắt bỏ khối u nếu PET cho thấy có di căn. Nếu khối u di căn từ nơi khác, thì đây không nhất thiết là phương pháp điều trị.
- Những người có SPN không thể phân loại là lành tính hay ác tính: Hầu hết mọi người đều thuộc nhóm này. Tuy nhiên, có tới 75% số bệnh nhân này có các nốt ác tính khi đánh giá thêm. Do đó, những người như vậy cũng được khuyên nên phẫu thuật cắt bỏ hoặc theo dõi bằng hình ảnh nối tiếp tùy thuộc vào kết quả PET và sinh thiết.
Phẫu thuật SPN
SPN có thể được phẫu thuật cắt bỏ ở những bệnh nhân có (1) nguy cơ ung thư từ trung bình đến cao và các dấu hiệu lâm sàng cho thấy nốt sần là ác tính hoặc (2) nốt sần mà tình trạng ác tính không thể xác định được ngay cả sau khi sinh thiết.
SPN được phẫu thuật cắt bỏ bằng cách mở ngực (phẫu thuật phổi mở) hoặc phẫu thuật nội soi ngực có hỗ trợ video (VATS).
- Phẫu thuật cắt ngực bao gồm việc rạch một đường trên thành ngực và cắt bỏ các mảng mô phổi nhỏ. Bệnh nhân trải qua thủ thuật này thường phải nằm viện trong vài ngày sau đó.
- Nội soi lồng ngực có hỗ trợ video được thực hiện với sự trợ giúp của ống soi lồng ngực (một ống mềm, có đèn với một camera nhỏ ở đầu) được đưa vào ngực thông qua một vết cắt nhỏ trên thành ngực. Camera hiển thị hình ảnh trên màn hình TV và bác sĩ phẫu thuật sử dụng màn hình để hướng dẫn phẫu thuật. Ưu điểm của nó so với phẫu thuật cắt bỏ ngực bao gồm thời gian phục hồi ngắn hơn và vết mổ nhỏ hơn.
Các bước tiếp theo
Theo dõi
- Những người được chẩn đoán mắc SPN lành tính nên lên lịch xét nghiệm theo dõi liên tục theo hướng dẫn của bác sĩ.
Phòng ngừa SPN
Tránh các nguyên nhân có thể giúp ngăn ngừa SPN hình thành. Các nguyên nhân có thể tránh được bao gồm:
- Hút thuốc
- Đi du lịch đến những khu vực có nhiều trường hợp mắc bệnh nấm (bệnh histoplasma, bệnh coccidioidomycosis, bệnh blastomycosis) hoặc đến những khu vực có tỷ lệ mắc bệnh lao cao
- Tiếp xúc nghề nghiệp với các yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi (như amiăng, radon, niken, crom, vinyl clorua, hydrocarbon đa vòng)
Triển vọng cho SPN
Hầu hết SPN đều lành tính, nhưng chúng có thể là dấu hiệu giai đoạn đầu của ung thư phổi.
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với bệnh ung thư phổi được chẩn đoán là 56% đối với bệnh khu trú và 5% đối với bệnh tiến triển.
Cơ hội duy nhất để chữa khỏi ung thư phổi giai đoạn đầu biểu hiện dưới dạng SPN là chẩn đoán và điều trị kịp thời.
NGUỒN: U phổi đơn độc từ eMedicineHealth. Hiệp hội Phổi Hoa Kỳ: "Phiếu thông tin về ung thư phổi." UpToDate: "Đánh giá chẩn đoán u phổi ngẫu nhiên." CDC: "Bệnh Nocardiosis."