Bệnh chàm và mụn trứng cá: Cái nào tốt hơn?
Da đỏ, bị viêm? WebMD sẽ cho bạn biết cách phân biệt đó là mụn trứng cá hay bệnh chàm.
Vào năm 1798, một bác sĩ người Scotland, Sir Alexander Crichton, nhận thấy một số người dễ bị mất tập trung và không thể tập trung vào các hoạt động của họ như những người khác. Ông báo cáo rằng những triệu chứng này bắt đầu từ rất sớm trong cuộc sống. Điều đó phù hợp với những gì chúng ta hiện gọi là rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).
Trong một loạt bài giảng năm 1902, Sir George Frederic Still đã nói về các tình trạng tâm thần ở những đứa trẻ khỏe mạnh có trí thông minh bình thường. Những đứa trẻ này bốc đồng hơn và có vấn đề về sự chú ý và khả năng tự chủ. Ông ghi nhận 15 trường hợp ở bé trai và năm trường hợp ở bé gái. Điều này phù hợp với kiến thức hiện đại rằng nam giới có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc ADHD hơn nữ giới.
Năm 1932, các bác sĩ người Đức Franz Kramer và Hans Pollnow đã mô tả một tình trạng gọi là bệnh tăng động. Trẻ em mắc tình trạng này không thể ngồi yên. Khó khăn khi tuân theo các quy tắc của chúng làm xáo trộn các lớp học ở trường. Và chúng gặp vấn đề trong việc hòa đồng với những đứa trẻ khác. Tình trạng này bắt đầu ở trẻ em từ 3 hoặc 4 tuổi và đạt đỉnh điểm ở độ tuổi 6. Khi trẻ lên 7, tình trạng bồn chồn của chúng trở nên ít dữ dội hơn. Hầu hết đều cải thiện khi chúng lớn lên.
Năm 1937, Charles Bradley, giám đốc y khoa của Bệnh viện Bradley ngày nay ở East Providence, RI, nhận thấy rằng một chất kích thích có tên là Benzedrine khiến một số trẻ em cư xử tốt hơn. Nó cũng cải thiện thành tích học tập của chúng. Benzedrine đã được FDA chấp thuận vào năm 1936. Nhưng phải mất nhiều năm các nhà nghiên cứu mới chú ý đến những phát hiện của Bradley.
Ngày nay, methylphenidate là loại thuốc kích thích mà bác sĩ thường kê đơn nhất cho trẻ em mắc chứng ADHD . Thuốc này được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1944 và được bán trên thị trường vào năm 1954 với tên gọi là Ritalin. Lúc đầu, thuốc được dùng để điều trị các tình trạng như mệt mỏi mãn tính và trầm cảm . Nhưng thuốc này có tác dụng tốt nhất trong việc cải thiện các triệu chứng của ADHD .
ADHD không được đưa vào "Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần" (DSM) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ cho đến lần xuất bản thứ hai vào năm 1968. Sau đó, nó xác định tình trạng này là phản ứng tăng động của trẻ em. Trong lần xuất bản thứ ba, phát hành vào năm 1980, APA đã đổi tên tình trạng này thành rối loạn thiếu chú ý (ADD) và tạo ra hai biến thể: ADD có tăng động và ADD không tăng động.
Năm 1987, APA đổi tên thành rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), kết hợp tình trạng mất tập trung, bốc đồng và tăng động thành một loại duy nhất.
Năm 1994, APA đã phát hành phiên bản thứ tư của DSM. Nó liệt kê ba loại ADHD : chủ yếu là không chú ý; chủ yếu là hiếu động thái quá và bốc đồng; và một loại kết hợp bao gồm cả ba triệu chứng. Phiên bản DSM này cũng thừa nhận rằng các triệu chứng ADHD không phải lúc nào cũng biến mất khi trẻ em trở thành người lớn.
Trong ấn bản gần đây nhất, được xuất bản vào năm 2013, APA đã chỉ định ba loại là ba "biểu hiện" của ADHD. Điều đó có nghĩa là cách rối loạn này có thể ảnh hưởng đến mọi người. APA cho biết điều này có thể thay đổi theo thời gian.
Hơn 5 triệu trẻ em trong độ tuổi từ 4 đến 17 tại Hoa Kỳ hiện được chẩn đoán mắc ADHD. Số ca mắc ở bé trai gấp đôi số ca mắc ở bé gái. Trong giai đoạn 1997-1999, 7% trẻ em trong nhóm tuổi này tại Hoa Kỳ được chẩn đoán mắc ADHD. Đến năm 2012-2014, con số này đã tăng lên hơn 10%. Tỷ lệ trẻ em trong nhóm tuổi này từng được chẩn đoán mắc ADHD tăng khoảng 5% mỗi năm từ năm 2003 đến năm 2011.
Khoảng 4,4% người lớn ở Hoa Kỳ hiện được báo cáo mắc ADHD và 62% trong số đó là nam giới. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ADHD ở người lớn ở Hoa Kỳ đã tăng từ 0,43% vào năm 2007 lên 0,96% vào năm 2016. Đó là mức tăng 123%.
Thuốc kích thích vẫn là cách phổ biến nhất để điều trị ADHD. Nhưng nhiều nhãn hiệu đã tham gia Ritalin. Chúng bao gồm các loại methylphenidate khác cũng như amphetamine . Thuốc không kích thích đầu tiên cho ADHD được phát hành vào năm 2002, và các loại khác theo sau. Chúng bao gồm các loại thuốc như atomoxetine (Strattera) và guanfacine (Intuniv), cũng được sử dụng để điều trị huyết áp cao . Các phương pháp điều trị khác đang được tiến hành.
NGUỒN:
CDC: "Rối loạn thiếu chú ý/tăng động (ADHD)."
Rối loạn thiếu chú ý và tăng động : "Lịch sử của rối loạn thiếu chú ý và tăng động."
Trẻ em và người lớn mắc chứng rối loạn thiếu chú ý/tăng động: "Tổng quan về ADHD", "Lửa nhiều hơn nước: Lịch sử tóm tắt về ADHD", "Tỷ lệ mắc ADHD nói chung".
Mạng lưới JAMA mở : "Xu hướng về tỷ lệ mắc và tần suất mắc chứng rối loạn thiếu chú ý/tăng động ở người lớn và trẻ em thuộc các nhóm chủng tộc và dân tộc khác nhau."
Da đỏ, bị viêm? WebMD sẽ cho bạn biết cách phân biệt đó là mụn trứng cá hay bệnh chàm.
Viêm khớp không có nghĩa là chấm dứt đời sống tình dục của bạn. Sau đây là những mẹo từ WebMD để duy trì và làm sâu sắc thêm sự gần gũi trong tình dục - bất chấp tình trạng cứng khớp và hạn chế khả năng vận động.
CDC đã công bố các khuyến nghị cập nhật cho người lớn tuổi, nêu chi tiết những người nên tiêm vắc-xin phòng ngừa RSV. Động thái này diễn ra sau khi có những lo ngại vào đầu năm nay rằng mũi tiêm này có thể liên quan đến nguy cơ mắc một tình trạng hệ thần kinh hiếm gặp có tên là hội chứng Guillain-Barré.
Vắc-xin uốn ván là một bước quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh uốn ván, gây ra các cơn co thắt đau đớn nghiêm trọng. Hiểu được ai nên tiêm vắc-xin và khi nào nên tiêm.
Tdap là vắc-xin kết hợp giúp bảo vệ chống lại ba bệnh do vi khuẩn có khả năng đe dọa tính mạng: uốn ván, bạch hầu và ho gà.
Những đột phá về công nghệ đang thay đ��i quá trình điều trị suy tim - nhưng vẫn còn nhiều nghi ngờ về số lượng người sẽ được hưởng lợi trong tương lai gần.
Các chuyên gia cho biết, việc cho con bú không được khuyến khích đối với phụ nữ nhiễm HIV ở Hoa Kỳ, nhưng các bác sĩ nên hỗ trợ những bệnh nhân chọn cách cho con bú nếu HIV của họ được ức chế bằng thuốc và thảo luận về các lựa chọn an toàn.
Chẩn đoán HIV sẽ thay đổi cuộc sống của bạn. Nó mang theo cả triệu chứng về thể chất và căng thẳng về mặt cảm xúc. Nhưng có những điều bạn có thể làm để kiểm soát tình trạng của mình, kiểm soát các triệu chứng và phát triển.
WebMD giải thích mối liên hệ giữa hội chứng ruột kích thích với chứng trầm cảm và lo âu.
Những người mắc hội chứng ruột kích thích thường cũng gặp phải các vấn đề sức khỏe khác. WebMD giải thích.